Việt Nam là một trong những quốc gia có nghề gốm xuất hiện khá sớm. Theo các tài liệu cổ, gốm đã xuất hiện ở Việt Nam một vạn năm trước đây.

Gốm là một trong những phát minh quan trọng của tổ tiên ta từ ngàn đời nay, đồ gốm đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân ta. Với trí sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của người thợ gốm, gốm cổ Việt Nam đã trở thành một loại hình nghệ thuật mang tính dân gian sâu sắc.

Gốm là một trong những phát minh quan trọng của tổ tiên ta từ ngàn đời nay, đồ gốm đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân ta. Với trí sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của người thợ gốm, gốm cổ Việt Nam đã trở thành một loại hình nghệ thuật mang tính dân gian sâu sắc.


Lịch sử phát triển của gốm sứ qua các thời kỳ
Thời tiền sử: những sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu thường thô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn giản ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các hoa văn này được tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch.

Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát minh ra đồ gốm tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi bàn tay của phụ nữ (vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó); được nung ngoài trời, nhiệt độ thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức.


Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động và gốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét chìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu nhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn này có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.


Thời đại đồ sắt: gốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng trong nước. Chất lượng gốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng và trang trí thì chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật thời kỳ này cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông nhưng nam giới đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.

Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm thời kỳ này mang phong cách Hán hoặc kết hợp hoa văn Việt và hoa văn Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khác được cải biên theo phong cách Việt.


Thời Lý - Trần: thế kỷ 10 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ phục hồi độc lập dân tộc sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Suốt bốn thế kỷ, từ nhà Lý sang nhà Trần, đồ gốm đạt được những thành tựu rực rỡ. Quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất liệu... đều được mở rộng. Nhiều loại men được ứng dụng và ổn định về công nghệ. Đặc biệt men trắng cũng xuất hiện ở thời kỳ này ngoài men tro và men đất. Ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồ gốm là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao đã tạo nên sản phẩm gốm thời kỳ này có ba loại nổi tiếng là gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.

Về tạo dáng gốm Lý - Trần ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả là cách tạo dáng của những đồ đồng trước đó. Trang trí trên gốm Lý - Trần, hoa văn hình học chiếm vị trí phụ. Những hoạ tiết chính ở đây là hoa lá, chim, thú, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc rất gần gũi với thiên nhiên và con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là nét chìm được làm "bè" ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên độ đậm nhạt cho hoạ tiết như trên gốm men ngọc hoặc làm giới hạn để tô nâu.

Về kỹ thuật, lò nung cho gốm thời Lý - Trần có một bước tiến lớn như việc sử dụng các lò cóc, lò nằm, có khi cả lò rồng để nâng nhiệt độ nung cho sản phẩm lên đến 1200ºC – 1280ºC. Việc sử dụng bao nung và kỹ thuật nung chồng bằng con kê (lòng dong) được ứng dụng rộng rãi đối với nhiều loại sản phẩm đã cho thấy đạt trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là gốm men ngọc. Nhiều địa phương sản xuất gốm ở Thanh Hoá, Hà Nội, vùng Nam Định... chứng tỏ sự hình thành gốm tập trung và mang tính chuyên nghiệp.

Gốm Lý - Trần đã tạo nên sự chuyển hoá bước đầu giữa yêu cầu sử dụng với chất liệu. Điều này nó thể hiện bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, phản ánh tư tưởng duy lý trong quá trình sáng tạo gốm và ứng dụng nó vào đời sống một cách tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.


Sau thế kỷ 14: nhiều trung tâm sản xuất gốm chuyên môn hoá nổi tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Hàm Rồng, Mỹ Thiện, Phú Vinh... chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của nghề. Nhiều sản phẩm gốm ghi lại địa phương, ngày tháng và người sáng tạo ra nó. Nhiều quốc gia đã nhập gốm từ Việt Nam, đặc biệt thợ giỏi của Nhật Bản còn bắt chước gốm của Việt Nam.

Tiêu biểu cho kỹ thuật và nghệ thuật gốm Việt Nam thời kỳ này là gốm hoa lam; gốm chạm đắp nổi tinh tế, có bản sắc riêng. Ngoài ra còn có loại gốm vẽ men mà người Nhật thời đó trong trà đạo rất ưa chuộng, gọi là "Hồng An Nam".

Về kỹ thuật, các loại lò rồng cỡ lớn đã được sử dụng khá rộng rãi, nhiệt độ và chế độ nung, điều khiển lửa một cách chủ động. Loại men tro trấu, tro cây được dùng nhiều. Kỹ thuật vẽ hoa đã đạt tới trình độ thành thục, nét trang trí phóng bút mang nhiều chất hội hoạ.

Đến thời Gia Long (đầu thế kỷ 19), nghề gốm có dấu hiệu xuống dốc bởi việc nhập gốm từ Trung Hoa theo các đơn đặt hàng của triều đình Huế. Một vài cơ sở sản xuất gốm ở Biên Hoà, Lái Thiêu đã phát triển một loại gốm men lửa trung (thường gọi là gốm Biên Hoà) được sử dụng khá rộng rãi ở các địa phương lân cận. Đầu thế kỷ 20, ở miền Bắc, một vài cơ sở đã nhập thiết bị từ nước ngoài và nghiên cứu sản xuất đồ sứ, nhưng kết quả không đáng kể.

Trong những năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, người Việt Nam không có điều kiện để phát triển nghề thủ công nói chung và nghề gốm nói riêng. Nghề gốm bị sa sút và có lúc tưởng chừng bị mất nghề. Sau ngày đất nước thống nhất, hầu hết các nghề thủ công được hồi sinh, trong đó nghề gốm là một nghề đã được khôi phục và phát triển rất nhanh. Nhiều trung tâm gốm trở lại hoạt động sôi nổi và rất năng động như Bát Tràng, Đông Triều, Phù Lãng, Biên Hoà... May mắn thay, các lớp nghệ nhân cũ vẫn còn và các lớp nghệ nhân mới đang xuất hiện. Sản phẩm gốm của Việt Nam từ lâu đã là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và hôm nay nó còn là một mặt hàng lưu niệm không thể thiếu đối với nhiều du khách gần xa.


Gốm thời Nguyễn thế kỷ XIX - XX thuộc địa Pháp

Cuối thế kỷ XVIII nước ta bước vào giai đoạn biến loạn, suy thoái nghiêm trọng, chiến tranh liên miên, nội chiến, xâm lược Mãn Thanh, giao thương đình đốn, mất mùa. Thủ công nghiệp, các làng sản xuất gốm sa sút, cùng lúc đó sự xâp nhập của đồ gốm Trung Hoa và phương tây vào Việt Nam do triều đình Huế cho nhập khẩu.

Khi tình hình đất nước ổn định, nhà Nguyễn đã phát triển dòng gốm phục vụ cho triều đình, quan lại, dòng gốm dân gian phục hồi và bước đầu lại xuất khẩu ở Bát Tràng.

Gốm cung đình triều Nguyễn mở lò gốm tại Long Thọ (Huế) chủ yếu là gốm trang trí kiến trúc xây lăng tẩm, ngói phục vụ cung điện, gốm kiến trúc cung điện, lăng tẩm thời Nguyễn là bộ mặt của kinh đô Phú Xuân (Huế) còn lại đến nay, đặc biệt là nghệ thuật trang trí ghép các mảnh gốm sứ đất điêu luyện, mỹ thuật đỉnh cao. Các dòng men rạn trắng ngà, men trắng hoa lam vẫn phát triển ở đỉnh cao. Các loại mầu men phát triển phong phú như màu men đá, trắng đục (gốm cậy); xanh xám, da lươn, đỏ sậm (Phù Lãng). Hình thức trang trí đa dạng, mở rộng đề tài, đặc biệt là tứ quý: Long, ly, quy, phượng; hoa lá: lan, cúc, trúc, mai, bướm, tùng hạc…

Nhiều đồ gốm Việt thời Nguyễn đã phát triển có xu hướng phong cách hiện đại. Cuối thế kỷ XIX nước ta lại bị Pháp xâm lược, đồ gốm sứ châu Âu vào Việt Nam, gốm sứ nhà Thanh tràn vào đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của gốm việt thời Nguyễn, gốm Việt Nam sa sút, không còn mạnh mẽ, lùi dần vào đồ gia dụng bình thường.



Gốm truyền thống Việt Nam
Gốm cổ truyền Việt Nam đã có cách đây sáu, bảy ngàn năm. Gốm xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long... Rồi ta thấy trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn Gò Mun... Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển cao và hết sức phong phú.

Trong truyền thuyết, sự xuất hiện của đồ gốm, đồ sứ như một điều bí hiểm, linh thiêng “Đồ gốm, sứ là loại chất bột nằm sâu trong lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ. Muốn khai thác được phải chọn ngày lành tháng tốt. Lên tới mặt đất, nhờ ánh sáng chói lọi của mặt trời soi dọi chất bột đó mới biến thành gốm, sứ...”

Thực ra đó chỉ là truyền thuyết ly kỳ để tăng cái phần quan trọng của kỹ nghệ gốm, sứ xa xưa. Thực chất hàng gốm, sứ ra đời nhờ đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ thủ công. Lịch sử Việt Nam, tập 1, trang 38 có ghi: “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục... quy mô to nhỏ khác nhau, được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi... bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm (nồi, bát, cốc, vò...) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ....”

Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ dẹp kỳ diệu của đồ gốm.

Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói... cũng đã có từ ngày này.

Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ, quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được khuyến khích phát đạt.

Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)... Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng - Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ


Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật, năm 1964, cho biết: Vào khoảng thời Lý - Trần có người đỗ Thái học sinh (đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần) được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc) là: Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt (Hải Dương). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau: Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và:

- Làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng.

- Làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ.

- Làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm.

Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.

Phường gốm Bồ Bát sau có rời ra ngoài Bắc. Dọc theo con sông Hồng, tới một bãi sông có đất thó trắng, họ dừng lại lập lò gốm ở đó, với tên gọi Bạch Phường thổ, sau này đổi là Bát Tràng phường. Và ngày nay, ta quen gọi là Bát Tràng.

Đồ gốm thời Lý - Trần phát triển mạnh, nhiều ở số lượng và quý ở chất lượng. Thịnh hành hai loại gốm chính, là: (1) Gốm trang trí kiến trúc, thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà... (2) Còn như gốm gia dụng, thì đủ thể loại. Nào bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò...

Đồ gốm thời kỳ này, ngoài ý nghĩa sử dụng trong nước, còn được xuất đi nhiều nước khác.

Lịch sử từng ghi lại, từ đầu nhà Lý đã có nhiều nước tới buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước ta như Nam Dương, Xiêm La (Thái Lan)... Tới thế kỷ XII, các thuyền buồm ngoại quốc cập bến nước ta càng đông. Năm 1149, Triều Lý cho lập cảng Vân Đồn, để thuyền bè các nước vào ra buôn bán. Cho tới nay, dọc hai bên bờ bến cảng Vân Đồn còn lại nhiều mảnh gốm của nhiều thời đại ở Việt Nam sản xuất. Trong đó, có cả mảnh gốm men ngọc của thời Lý. Vậy, đó chẳng là dấu tích để khẳng định hàng gốm của ta từ xưa đã đạt trình độ cao đó sao?

Ở nước ta, có thời người dân cứ sính đồ ngoại. Ví dụ: Mặt hàng gốm men ngọc thời Lý của chính nước ta làm ra thì gọi là “gốm Tống” hoặc “đồ Tống”.

Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn lưu giữ được nhiều đồ gốm, đồ sứ các thời đại của nước ta. Đó là những dấu tích để chứng minh kỹ nghệ phẩm ở nước ta sớm phát triển, và từ xưa, nghề gốm ở nước ta đã chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế, văn hóa của dân tộc. Qua đây, chúng ta càng thêm yêu quý đôi bàn tay khéo léo và bộ óc giàu sáng tạo của những người thợ gốm Việt Nam. Để hiểu sâu thêm về nghề gốm, chúng tôi muốn giới thiệu một đôi nét về các kiểu lò gốm và men gốm từ xưa ở nước ta.

Lò gốm xa xưa

Thực ra, nguyên lý của lò gốm xưa và nay không khác nhau nhiều lắm. Nó vẫn dựa trên nguyên lý cơ bản, cấu tạo gồm 3 phần: bầu lò, thân lò, hệ thống ống khói. Chỉ có điều, lò gốm ngày xưa thì nhỏ bé và đơn giản.









Do sự phân chia công dụng của mỗi loại lò, nên đã có tên gọi riêng cho lò gốm: lò quan và lò dân. Sản phẩm lò quan chủ yếu phục vụ cung đình và giao bằng quốc tế. Còn sản phẩm lò dân là những vật dụng thông thường cho con người sinh hoạt hàng ngày như: cốc, bát, ấm, lò, lọ, chum, vại... Theo lệ thường, sản phẩm ở lò quan bao giờ cũng được đầu tư kỹ thuật cao hơn ở lò dân.

Theo tài liệu của Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ) về việc khai quật khu lò nung gốm sứ ở Bút Tháp (Thuận Thành) cho thấy: Khu lò nung gốm sứ này gồm 4 lò với cấu trúc kiểu lò tương tự giống nhau. Toàn bộ lò nhìn bên ngoài có hình quả dưa, giữa phình rộng, hai đầu cụt. Kích thước đo được ở một lò có hình thức bề thế và to lớn hơn ba lò kia, cho thấy: chiều dài 3,35 mét, chiều rộng nhất gần 2 mét. Như thế, quy mô của lò nung thời đó nhỏ gọn.

Điểm đáng chú ý là các lò gốm, hầu hết dùng nhiên liệu đốt bằng tre, gỗ; nhiên liệu than chưa dùng vào thời kỳ này. Qua đây, nó thể hiện tiêu chuẩn kỹ thuật nung thời đó và ý thức tự lực tự cường nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương rất cao.

Phần khác, thấy rằng, cấu trúc lò rất đơn giản và sáng tạo; thợ đắp lò thời xưa chỉ dùng đất sét mà đắp chứ chưa phải dùng tới gạch chịu lửa để cuốn bầu lò và thân lò. Trong khi đó, ở Trung Quốc, lò sứ gốm thời Đường không lớn lắm (thường dài 3 mét, rộng 2 mét), vậy mà đã phải dùng tới gạch chịu lửa để xây cửa đốt và xây ống khói.

Cũng theo tài liệu về khảo cổ học năm 1975 của Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Bắc Ninh) cho chúng ta biết thêm về khu lò nung gốm, gạch ở Đông Yên thuộc phần đất Bắc Ninh, nằm bên bờ sông Ngũ Huyện vào thời Lê Mạt. Cấu trúc của lò có khác kiểu lò ở Bút Tháp. Đó là lò gốm hình tròn, có đường kính 1,2 mét, tường lò đắp đất có lẫn mảnh sành gạnh nhỏ, dầy 1 mét, chân tường choãi, bên trên thu nhỏ dần theo kiểu vòm cuốn. Bầu lò được tạo hình phễu, đắp liền với tường lò, cũng bằng đất với bề dầy xấp xỉ 0,2 mét.

Qua khảo cứu, lò gốm ở Đông Yên có phần tiến bộ hơn ở Bút Tháp. Song cứ dọc tuyến tiến triển của các lò gốm qua các thời đại, ta thấy, cho tới đầu thế kỷ XX này, các lò nung mới được cải tiến một bước lớn. Đó là chuyển hình thức từ đun lò con cóc sang hình thức đun lò rộng nhiều bầu. Chuyển dần thể thức đun tre gỗ sang đun than và đun dầu. Đó là những bước tiến xa và khẳng định sức sống bất hủ của kỹ nghệ gốm thủ công.

Ngày nay, với kiểu lò gốm hiện đại, người ta đã thiết kế kiểu lò vòng liên hoàn. Đó là một hình thức của lò gạch tiên tiến. Người ta chỉ việc nhóm lò một lần, và ngọn lửa lò cứ cháy truyền từ bầu lò này sang bầu lò kia, ngọn lửa ấy cứ cháy mãi cho tới ngày lò hỏng. Những cải tiến văn minh đó, là khởi nguồn từ chiếc lò gốm cổ thô sơ thuở xưa...

Men gốm thời Lý - Trần

Thời Lý - Trần là thời thịnh vượng của kỹ nghệ gốm. Vì thế, men gốm thời Lý - Trần phong phú là điều tất yếu.

Trước thời kỳ này, một số đồ gốm ở dạng gốm mộc, không phủ men mà được bao ngoài một lớp áo gốm, khâu phủ áo gốm không phải nơi nào cũng làm, nhưng Thổ Hà và Phù Lãng đều có dùng tới áo gốm. Áo gốm là một dung dịch tổng hợp giữa đất và chay, với công thức 4 đất 1 chay. Đất là gốm, giã nhỏ, sàng lọc cẩn thận. Còn chay là một thứ đá có lẫn gỉ sắt ở ngay địa phương. Chay cũng phải giã nhỏ, sàng lọc kỹ càng. Có hai thứ đất và chay rồi, trộn lẫn, pha nước, hòa tan thành một dung dịch. Tất cả các đồ gốm trước khi đem nung được nhúng vào dung dịch này, tạo ra một lớp áo gốm. Nếu cứ thế đem nung lên, là có gốm đẹp rồi. Hoặc giả, muốn phủ men ngoài thì ta phủ men lên lớp áo gốm.

Hãy làm quen với ba loại men gốm tiêu biểu thời Lý - Trần. Đó là gốm men ngọc, gốm hoa nâu, gốm hoa lam.

Gốm men ngọc: Khi đã có xương gốm tốt, người ta phủ ngoài một lớp men dày màu xanh mát, trong bóng như thuỷ tinh, do đó mới gọi là gốm men ngọc. Đồ gốm men ngọc ở ta rất giá trị, được trong và ngoài nước ưa chuộng. Người ta thường sánh gốm men ngọc của ta với đồ gốm Long Tuyền thời Tống của Trung Quốc.








Gốm men ngọc thời Lý thường tạo xương gốm mỏng, thanh. Tới thời Trần, thì phần xương gốm chắc, dầy hơn. Hoa văn trang trí trên gốm, đa phần là hình tượng hoa sen cách điệu. Ngoài ra còn một số đề tài khác, như trang trí hoa thảo và các hoa dây chạy quanh bình gốm. Có ba hình thức trang trí trên đồ gốm: hoa khắc, hoa in và hoa đắp. Hoa in chìm hoặc đắp nổi thì dùng khuôn, còn hoa khắc thì đùng mũi dao đầu nhọn hoặc một đầu thanh tre vẽ lên xương gốm khi đất còn mềm. Khắc hoa rồi đem nhúng vào men, men đọng lại và tạo ra các hình hoa văn trang trí rất đẹp. Bên cạnh các đồ gốm men ngọc cầu kỳ và tinh xảo đó, người thợ thủ công còn sản xuất một số đồ gốm đại trà, có khi để mộc, có khi phủ lớp men mỏng màu vàng, màu nâu, hoặc màu da lươn mà xỉn màu và ít bóng. Loại gốm này để sử dụng thông dụng và ngay khi nung, người ta nung từng chồng cao.

Thời Lý, đồ gốm hầu như không viết chữ. Tới thời Trần, ta thường thấy dưới trôn các loại đồ gốm có hàng chữ mầu nâu “Thiên Trường phủ chế”.

Gốm hoa nâu: Đó là loại gốm đàn, kiểu dáng to, chắc chắn, cốt gốm dầy và thô. Bên ngoài có phủ lớp men trắng ngà hoặc vàng nhạt. Gốm hoa nâu xuất hiện vào cuối thời Lý đầu thời Trần.








Hình thức trang trí hoa văn trên gốm hoa nâu thường là hoa dây chạy viền quanh miệng đồ gốm. Đặc biệt, hầu hết các sườn gốm hoa nâu có đắp nổi hình hoa thảo, chim cò, thú bốn chân, hoặc tôm cá... rất sinh động. Các hình rồng trang trí ở gốm hoa nâu thời Trần có khác thời Lý. Đó là mình rồng khỏe mập, uốn khúc thoải mái, khác hẳn con rồng thời Lý thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó.

Gốm hoa lam: là tên một hoại gốm phủ men trắng đục vẽ trang trí màu lam.











Để có màu men đẹp, điều cần thiết phải có cốt xương gốm tốt. Xem ra, thông thường thì xương gốm là đất sét có pha cát. Nếu gốm cổ, lại pha cả một số tạp chất khác như rơm, rạ, trấu hoặc lá cỏ dại để tăng độ liên kết.


Lời kết

Gốm Việt Nam điểm qua thời gian, phát triển dài trong lịch sử cội nguồn dân tộc: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn là một giai đoạn dài từ sơ khai đến phát triển cao. Văn hóa Mỹ thuật gốm thời Đông Sơn nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương, Âu Lạc, Nam Việt là cầu nối nghệ thuật cho đồ đồng phát triển rực rỡ.

Nhà nước ta trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, vẫn cho tổ chức nghiên cứu đồng bộ, đa dạng, đỉnh cao là trống đồng, thạp đồng. Những đồ gốm cao cấp, đa dạng phong phú về chủng loại, kiểu dáng hoa văn trang trí từ thế kỷ II, III TCN hiện diện, được phát hiện sau 21 thế kỷ, là một ấn tượng lịch sử đồ gốm rực rỡ. Câu chuyện truyền thuyết “Nồi Hầu” của làng gốm Hương Canh, Hà Nội, có nghề làm nồi đất nung từ thời An dương Vương xây thành Cổ Loa là hiện thực. Sách Gốm Việt Nam viết: “Cu nồi lớn lên trong một gia đình làm gốm, lao động khá nặng nhọc và vất vả nên có sức khỏe phi thường, chăm làm ăn lại có chí lớn. ở tuổi thanh niên, trong cuộc thi võ ở kinh đô, được An Dương Vương phong tước Hầu, nhưng vị võ tướng quân xứ Âu Lạc vẫn không thể quên nghề nghiệp đáng kính trọng của bố mẹ và làng quê mình, nên ông vẫn giữ nguyên tên cũ, xin được gọi là “Nồi hầu”. Ông sinh con, cầm quân chiến thắng xâm lược. Ông Nồi hầu cùng vợ và hai con, ngày nay vẫn được dân hai thôn Ngọc Chí và Vĩnh Thanh huyện Đông Anh thờ phụng”. (Trần Khánh Chương/NXB Mỹ thuật 2001). ở Hương Canh còn thờ thần lửa có vị trí quyết định trong nghề làm gốm. Từ câu chuyện truyền thuyết, di sản phi vật thể, đến 21 thế kỷ sau phát hiện ra đồ gốm thời An Dương Vương trong mộ Nam Việt Văn đế, con trai Trọng Thủy (Trọng Thủy là con rể của An Dương Vương) đã hiện rõ mỹ thuật, kỹ thuật đỉnh cao, lịch sử gốm Việt Nam trải qua một bề dày thời gian từ văn hóa Bắc Sơn cách ngày nay gần 10.000 năm. Đồ gốm Phùng Nguyên đã được chế tạo bàn xoay, độ nung cao khoảng 800 độ với nhiều hoa văn kiểu dáng thấy trong mộ Văn đế Triệu Muội và hoa văn đồ đồng Đông Sơn. Phong cách trang trí họa tiết gốm là cầu nối cho mỹ thuật đồ đồng Đông Sơn phát triển, với các mô típ hình học, cây lúa nước, cùng với các mô típ kiến trúc, lễ hội, thuyền bè, chim cá, trong mỹ thuật Đông Sơn thời Hùng Vương 2000 năm TCN. Những đồ gốm trong mộ vua Việt Văn đế thế kỷ III, II TCN, là bằng chứng nối liền với gốm Phùng Nguyên, đã cho ta kháI niệm đồ gốm Việt truyền thống thời Hùng vương tồn tại 2000 năm TCN. Khi nước ta bị xâm lược 10 thế kỷ, các kỹ thuật mỹ thuật đã bị hạn chế, bị đồng hóa, tiêu diệt. Gốm Việt có dịp lại bùng lên mạnh mẽ khi độc lập, trải qua Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn, gốm Việt Nam trở thành nổi tiếng trên thế giới. Gốm Việt Nam xuất khẩu có mặt trên nhiều bảo tàng danh tiếng, có nhiều bộ sưu tập đặc biệt như: bình vôi, lọ hoa, tước, chén uống rượu, uống trà, gốm xây dung, trang trí kiến trúc cung điện, chùa tháp như: “xây dung nhà thờ ở Troulan, Demar, tháp Rude” (Hà Văn Tấn). Gốm có mặt ở bảo tàng Pháp, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, ấn Độ, Indonesia, Philippin, Mỹ, Ai Cập.

Gốm Việt Nam gắn liền với cuộc sống người Việt như một nhân chứng, phát triển theo dòng lịch sử dân tộc, lúc thịnh, lúc suy. Mỹ thật gốm Việt đã phát triển rực rỡ, đóng góp trong nền văn minh của nhân loại, sự sáng tạo kỹ thuật men nhiều loại độc đáo, có vị trí, phong cách trong ký ức phát triển nghệ thuật gốm sứ của nhân loại với lịch sử gốm bốn ngàn năm.

View more random threads: