Vào những năm đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội có một nhóm chơi cổ vật được nhiều người biết tiếng. Nhóm có khoảng hai chục người, hầu hết đều giàu có tiếng ở đất Hà thành thời bấy giờ, trong số đó có thể kể đến cụ Nguyên Ninh, cụ Vĩnh Thành, cụ Thanh Đức, ngoài ra còn có cụ Toại Khang (Nguyễn Văn Được), cụ Ngô Văn Vĩnh, cụ Vĩnh Thắng, cụ Dục Hỷ (chủ chuỗi khách sạn ở Cửa Đông thời đó).


Những tay chơi cổ vật Hà thành xưa

Vào những năm đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội có một nhóm chơi cổ vật được nhiều người biết tiếng. Nhóm có khoảng hai chục người, hầu hết đều giàu có tiếng ở đất Hà thành thời bấy giờ, trong số đó có thể kể đến cụ Nguyên Ninh, cụ Vĩnh Thành, cụ Thanh Đức, ngoài ra còn có cụ Toại Khang (Nguyễn Văn Được), cụ Ngô Văn Vĩnh, cụ Vĩnh Thắng, cụ Dục Hỷ (chủ chuỗi khách sạn ở Cửa Đông thời đó).








Cụ Thanh Đức trong căn phòng chơi cổ đồ - Ảnh: tư liệu


Đập cửa mang đá vào nhà

Cụ Nguyên Ninh tên thật là Nguyễn Duy Ất. Tính tới thời gian ấy, gia đình cụ đã có bốn đời nổi tiếng với nghề làm bánh cốm ở phố Hàng Than. Những người từng gặp đều ấn tượng cụ Nguyên Ninh là người rất lịch lãm, ra đường lúc nào cũng đóng bộ complê, xịt nước hoa thơm phưng phức. Nói đến thú chơi cổ vật của cụ thì nhiều dân chơi ngày đó và bây giờ đều phải... ngả mũ.

Có lần, mua được một tảng lũa đá rất đẹp nhưng mang về đến nhà thì không đưa vào được vì khung cửa chật, cụ liền cho người đập cửa ra. Cụ thích chơi những món mà người khác không có, đó phải là thứ đồ vừa quý vừa hiếm. Nhiều món đồ của cụ như bộ vách tranh sứ Hồng Lâu Mộng, bộ tranh bát tiên (với hình các vị tiên được làm nguyên bằng sứ), bức tranh cổ đồ được làm bằng ngọc... đã làm bao tay chơi cổ vật phải thèm thuồng.

Gia đình cụ Vĩnh Thành (Ngô Đức Tiêu) đã nhiều đời ở phố Châu Long, có cửa hàng khảm vàng, bạc nổi tiếng thời đấy. Đến nhà cụ chơi, ai cũng muốn được ngắm bộ nậm độc sắc hiếm có. Bộ nậm gồm năm chiếc, mỗi chiếc được tráng một màu men là thúy hồng, bạch định, thúy lĩnh (đen), khổng tước lục (xanh lam), hoàng sắc. Cụ còn có một chiếc lọ đùi dế màu bạch định hay màu trắng ngà voi. Chiếc bình quý đến nỗi mỗi lần đi sơ tán trong thời gian chiến tranh, cụ luôn phải dặn người nhà gói ghém cẩn thận để mang theo bên người.








Chiếc nậm màu khổng tước lục của cụ Vĩnh Thành - Ảnh: Minh Ngọc


Không ít lần cụ Tiêu cùng với nhiều cụ trong nhóm lặn lội mấy ngày trời sang tận Trung Quốc tìm mua những món đồ đẹp và quý về chơi. Ngoài thú chơi đồ cổ, cụ Tiêu còn chơi cây sành sỏi nức tiếng, đặc biệt là chơi hoa thủy tiên. Cụ còn giành giải nhất trong một cuộc thi gọt thủy tiên vào năm 1927. Gia đình hiện vẫn còn giữ phần thưởng cụ nhận năm ấy là một chiếc hộp gỗ đựng thuốc lá, bên trên có khảm ngọc trai hình khóm lan và dòng chữ Vương giả tri hương. Cứ đến gần tết, cả nhóm lại thích đến nhà cụ Tiêu chơi, không chỉ để ngắm cổ đồ, nhâm nhi chén trà, hàn huyên trò chuyện, mà còn thưởng hoa thủy tiên. Trước khi ra về, cụ nào cũng nhờ cụ Tiêu gọt hộ vài giỏ thủy tiên mang về chơi tết.

Trong nhóm có cụ Thanh Đức (tức Trịnh Đình Kính) thường được biết đến với biệt danh “ông hoàng thủy tinh xứ Đông Dương”. Khi lên 10 tuổi, cậu bé Trịnh Đình Kính vào giúp việc cho một xưởng sản xuất thủy tinh của người Hoa tại Hà Nội. Mười tám năm sau (1914), cậu bé ấy trở thành chủ xưởng sản xuất thủy tinh ở số 65 Hàng Bồ, lấy tên hiệu là Thanh Đức. Cụ là người tạo ra thủy tinh màu đầu tiên ở Việt Nam, là người đầu tiên ở xứ Đông Dương dưới thời thuộc địa của Pháp chế tạo ra máy vẽ thủy tinh, được vua Minh Mạng tặng Nam Long bội tinh vì đã làm rạng danh cho người Việt. Đồ thủy tinh của Thanh Đức chất lượng và đẹp ngang ngửa với đồ của Pháp mà lại rẻ hơn. Việc sản xuất, kinh doanh của cụ rất phát đạt. Nhiều nước thuộc địa Pháp còn tìm đến Thanh Đức đặt hàng.

Ông hoàng thủy tinh xứ Đông Dương còn được kính nể ở cách chơi cổ đồ. Giới chơi cổ vật vẫn truyền nhau về 8 bộ ấm chén xuân-hạ-thu-đông của cụ. Mỗi bộ mang một kiểu dáng, màu sắc khác nhau và chỉ hợp với một mùa trong năm. Không phải ai đến nhà cụ cũng được chiêm ngưỡng bộ ấm chén đặc biệt đó, chỉ có khách quý cụ mới đem ra. Thời đó, cụ và cụ Nguyên Ninh có hai bộ bàn cuốn quý, giới chơi cổ vật tìm mà không thể thấy cái thứ hai như thế. Bộ bàn của cụ Nguyên Ninh trên mặt có hình ổ rồng, còn của cụ Thanh Đức trên mặt có bức tranh cổ đồ bằng sứ.

Thưởng ngoạn cổ vật

Cứ đến cuối tuần, cả nhóm lại lần lượt qua nhà từng cụ thưởng ngoạn cổ vật. Đi chơi thôi mà cụ nào cũng mặc áo dài, có khi đóng bộ complê đàng hoàng. Cũng có khi trong tuần, cụ nào mua được món mới, sai người nhà mang tấm giấy có viết “đệ mới cưới được cô thiếp” gửi cho các cụ khác là cả nhóm lại đến cùng thưởng lãm, bàn luận. Cách khen, chê đồ cổ của các cụ cũng rất ý nhị, chả bao giờ sỗ sàng. Đến ngắm chiếc lọ mới, có cụ chỉ khen tấm tắc cái đế đặt lọ. Thế là, khi khách về, chủ nhân hiểu ra rằng cái lọ bị chê khéo.








Chiếc đỉnh đốt trầm của cụ Nguyên Ninh
Có câu chuyện được kể lại rằng, cụ Nguyên Ninh có một cái đỉnh đốt trầm nhỏ bằng đồng, trên có đúc hình hai con sư tử, độc đáo ở chỗ bên dưới có đế được làm bằng gỗ, chạm khắc hình hoa sen. Cụ Vĩnh Thành sang chơi lần nào cũng ngắm cái đỉnh và tấm tắc khen. Thấy bạn mê chiếc đỉnh này quá, cụ Nguyên Ninh liền tặng luôn. Còn cụ Vĩnh Thành thì ngay ngày hôm sau mang một chiếc đĩa men ngọc có hình hai con cá tặng lại bạn. Các cụ trong nhóm chơi ngày xưa không mấy khi mua bán cổ vật, đổi chác cổ vật của nhau như bây giờ mà coi “của mình cũng như của bạn”. Nếu thích món nào thì mượn bạn về bày rồi hai, ba tuần sau trả lại.

Thời điểm những năm đầu thế kỷ 20 ở Bắc kỳ, dân chơi cổ vật thường chơi theo lối cổ đồ chứ không theo lối sưu tập. Chơi cổ đồ không cần nhiều món nhưng món nào phải ra món nấy, phải hội tụ ba yếu tố cổ-quý-kỳ. Người chơi coi trọng việc bày biện cổ vật theo quy cách mỹ thuật cổ điển ảnh hưởng chủ yếu từ Trung Hoa. Khi có món đồ mới, chủ nhân thường mời bạn bè đến cùng uống trà, thưởng ngoạn trong không gian tao nhã.

Bây giờ, các cụ trong nhóm chơi đều đã mất, không còn nhiều người Hà Nội giữ lối chơi này. Hiếm hoi có cháu nội cụ Vĩnh Thành là vẫn đam mê với thú chơi tinh tế, tao nhã của các cụ ngày xưa.