“Cao sơn lưu thủy” gắn liền với điển tích Sở Bá Nha- Chung Tử Kì. Tương truyền, hơn hai nghìn năm trước Bá Nha hay đàn bản “Cao sơn lưu thủy”, nhưng chỉ có một mình Chung Tử Kì biết thưởng thức. Một lần Bá Nha gảy đàn, chí tại non cao, Tử Kì liền bảo “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Đánh đàn hay thay, vòi vọi tựa Thái Sơn). Bá Nha chí tại vực sâu, Tử Kì nhận ngay ra rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Cuồn cuộn như nước chảy).





Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.

Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú, khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.

Bản nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển hợp. Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.

Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh. Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn. Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.

Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn. Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.

Lưu thủy hữu tình

Lắng nghe khúc nhạc, nếu thật sự không nhập tâm và tinh tế thì chúng ta không thể thấy hết cái hay cái đẹp của nó.

Khúc nhạc bắt đầu bằng những thanh âm nhẹ nhàng và chậm rãi. Tiếng đàn đưa ta đến một không gian cao, rộng và thoáng đãng và mơ màng. Ta như thấy lại hình ảnh Bá Nha năm nào đang đưa người theo điệu nhạc, đôi mắt nhắm lại và mơ về một nơi xa nào đó. Chỉ có đôi tay người nghệ sĩ lướt nhẹ trên phím đàn khi trầm khi bổng, dặt dìu, êm ái. Xung quanh là con sông chảy hiền hòa ôm vào lòng nó những dãy núi mù sương… Có lẽ đây là không gian mà ta gọi là 'Cao sơn'.

Rồi bỗng nhiên, nhịp đàn nhanh dần, réo rắt những dịp dồn dập nhau. Tưởng chừng như cả trái tim người nghệ sĩ cũng rung lên với nhịp thở gấp gáp. Ta lại như thấy mình giữa một khung cảnh sơn thủy hữu tình, một ngọn núi xa xa, một dòng thác chảy mạnh mẽ. Dòng nước cuộn sóng tung bọt trắng xóa. Con nước chảy từ trên cao hòa mình vào dòng nước lớn. Khung cảnh ấy có thể hình dung là 'lưu thủy'. Kết lại bản nhạc vẫn là những điệu âm réo rắt rồi nhỏ dần nhỏ dần như dòng chảy đang dần về một nơi xa lắm.

Bản nhạc không chỉ hay ở giai điệu mà còn đẹp như một bức tranh hữu tình. Đôi khi giữa dòng đời hối hả, dành ra một khoảng để lắng nghe 'Cao sơn lưu thủy', ta lại thấy tiếng đàn như rót vào tim những thanh âm trong trẻo nhất. Một chút gì đó hoàn toàn thanh khiết không vướng bụi trần. Đó là tinh hoa của trời đất, của tình người tri cố, của những tâm hồn cô độc tìm thấy nhau giữa cuộc đời nhiều oan trái. Để rồi mỗi sáng thức dậy sẽ lại thấy lòng mình thanh thản và nhẹ tênh. Và lại thấy như có tiếng đàn vẫn réo rắt, du dương ngay trong chính tầm hồn mình…





Cao sơn lưu thuỷ - 高山流水


Cầm phổ sớm nhất của nhạc khúc này được ghi trong Thần kỳ bí phổ. Giải thích về nhạc khúc này sách viết: “Cao sơn lưu thuỷ ban đầu chỉ có một đoạn, đến đời Đường nó được phân thành hai khúc nhạc giống nhau, không phân đoạn, đến đời Tống người ta mới phân Cao sơn thành 4 đoạn, lưu thuỷ thành 8 đoạn”.
Cao sơn lưu thuỷ gắn liền với một giai thoại về mối tình tri âm tri kỉ giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Ngay từ thời Xuân Thu Chiến Quốc( thế kỉ 4 tr.CN), Liệt Ngự Khấu, người nước Trịnh, trong Thang vấn, sách Liệt Tử chép: “ Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi. Bá Nha chơi đàn, chí tại núi cao, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! vời vợi tựa Thái sơn’. Chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! mênh mang như sông nước’. Bất luận là chí tại cao sơn hay chí tại lưu thuỷ, Bá Nha trong mỗi khúc nhạc đều biểu hiện chủ đề hoặc ư tưởng của mình, nhờ đó Chung Tử Kỳ có thể lĩnh hội được ư tứ đó. Nghe nhạc vốn dĩ là cảm cái khúc ư mà người chơi gửi gắm, đạo lư này vốn dĩ đă có từ ngàn xưa vậy.





Một ngày, Bá Nha cùng Chung Tử Kỳ chơi núi Thái sơn, gặp trời mưa to, hai người dừng lại dưới một mỏm núi đá. Bá Nha trong tâm phiền muộn bèn tấu một khúc nhạc. Khúc nhạc ban đầu biểu hiện cảnh mưa rơi xuống một dòng suối trên núi, tiếp đó khúc nhạc mô phỏng âm thanh của nước lên cuồn cuộn cùng đất đá đổ nát. Tấu xong, Chung Tử Kỳ ngay lập tức nói ra được ư tứ của mỗi bài. Bá Nha thấy thế bỏ đàn mà rằng: “ Giỏi thay! Các hạ có thể nghe thấu cái chí thú trong khúc nhạc, ư của các hạ cũng là ư của ta vậy”. Từ đó hai người trở thành một cặp nhân sinh tri kỷ mà đời sau vẫn ca ngợi. Nhưng mà sách Liệt Tử hoàn toàn không nói tới chuyện Bá Nha, sau khi Chung Tử kỳ mất, không bao giờ chơi đàn nữa.

Vào khoảng thế kỷ thứ III tr.CN sách Lă Thị Xuân Thu, thiên Bản vị cũng ghi lại câu chuyện tương tự: “Bá Nha chơi đàn, Chung Tử Kỳ nghe. Đàn chơi mà chí để tại Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Cao cao như núi Thái Sơn. Khi chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Mênh mang như nước chảy. Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha quẳng đàn, dứt dây đến tận cuối đời không chơi đàn; từ đó trên nhân thế không có ai có thể gọi là cầm giả nữa”. Lă Thị Xuân Thu nhìn chung giống với sách Liệt Tử, chỉ khác kết cục này: sau Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đến cuối đời không chơi đàn nữa.

Lă Thị Xuân Thu tuy không phải là một cuốn sử có độ xác tín cao, nhưng cùng với sách Liệt Tử trước đó thì nội dung không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Vì chuyện Bá Nha sau khi Tử Kỳ mất không chơi đàn nữa nên đã có một câu chuyện đẹp được lưu truyền (tích 'tri âm'). Bá Nha lúc sinh thời là một người nổi tiếng. Tuân Huống trong thiên Khuyến học cũng từng đề cập đến Bá Nha: “Cổ nhân chơi đàn thì cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi đàn làm sáu ngựa dừng ăn”. Tuy lời lẽ có vẻ khoa trương nhưng tài năng của một đại âm nhạc gia như Bá Nha là không thể nghi ngờ.

Sau sách Liệt Tử và Lă Thị Xuân Thu, đời Tây Hán có Hàn Thi ngoại truyện, Hoài Nam Tử, Thuyết uyển, Đông Hán có Phong tục thông nghĩa, Cầm tháo, Âm phổ giải đề,… đều viện dẫn câu chuyện này. Trong các tác phẩm này đều miêu tả Bá Nha với nội dung hết sức phong phú. Thí dụ như Sái Ung đời Đông Hán trong sách Cầm Tháo viết câu chuyện Bá Nha bái sư học thủ pháp “di tình” của cổ cầm. Đến đời nhà Minh Phùng Mộng Long trong phần khai quyển thiên thứ nhất là “Du Bá Nha suất cầm tạ tri âm”. Trong thiên tiểu thuyết này Bá Nha trở thành nhạc quan Du Bá Nha còn Chung Tử Kỳ trở thành tiều phu ở đất Hán Dương. Từ một điển tích thời cổ hơn trăm chữ đến đây từ nhân vật, địa điểm, đến tình tiết nhất nhất đều đă trở thành một thoại bản tiểu thuyết.


Cao sơn lưu thuỷ luôn gắn liền với thiên cổ giai thoại về Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Nó có thể lưu truyền hơn hai nghìn năm cũng là nhờ nó đă dung hội được những phẩm chất tinh túy của văn hoá Trung Hoa. Đoạn giai thoại kể trên có thể nói đã thể hiện được đầy đủ nhất văn hoá tinh thần về “thiên nhân hợp nhất, vật ngă lưỡng vong” của người Trung Quốc cổ đại. Vào đời Minh, Chu Quyền Thành trong sách Thần kỳ bí phổ đối với câu chuyện này đă giải thích rất kỹ: “ Hai khúc cao sơn, lưu thuỷ vốn chỉ là một khúc. Ban đầu chí để nơi núi cao, nói ư người nhân vui ở núi. Sau đó chí để tại dòng nước chảy, nói ư kẻ trí vui ở sông nước. “Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thuỷ” Cao sơn lưu thuỷ đă ẩn chứa sự mênh mang của trời đất cũng như hồn cốt của sông núi, có thể nói đă đạt được cảnh giới tối cao của việc biểu hiện những chủ đề cổ nhạc Trung Quốc. Nhưng mà khúc nhạc Cao sơn lưu thuỷ của Bá Nha hoàn toàn không được lưu truyền hậu thế, người đời sau không hề được lĩnh hội cách xử lư tuyệt diệu của Bá Nha trong khúc nhạc. Sở dĩ người đời sau không ngớt lưu truyền câu chuyện vì đằng sau Cao sơn lưu thuỷ hoàn toàn là dụng tâm mà hướng đến khúc nhạc.

Giai thoại này được lưu truyền nguyên nhân trực tiếp là vì mối tình tri âm, tương tri, tương giao giữa hai người. Tri âm đă mất, Bá Nha đương nhiên đoạn huyền tuyệt âm. Nhạc Phi trong Tiểu trùng san chỉ một câu “Người tri âm thực ít, đàn không đứt thì biết lấy ai nghe” đă phản ánh chính xác tâm trạng của Bá Nha lúc bấy giờ. Việc quẳng đàn của Bá Nha thể hiện rất rõ chí của ông ta. Thứ nhất là việc làm thể hiện sự tôn trọng đối với người bạn đă mất, thứ nữa là vì tuyệt học của chính mình người đời không ai có khả năng lĩnh hội được nên biểu hiện sự buồn khổ và cô độc. Như thế thì Bá Nha tất là người thị tài ngạo vật, trác tuyệt khác người, khúc nhạc của Bá Nha là cao khúc nhưng cũng vì thế mà cô độc, phàm phu tục tử không thể lĩnh hội được sự linh diệu của nhạc khúc. Bá Nha đã cảm thấy thấu đáo sự cô độc, phát hiện ra rằng tri âm nơi trần thế thực khó tìm mà nhất thời cảm khái.

Cao sơn lưu thuỷ sở dĩ được các chư tử thời Xuân thu chiến Quốc nhiều lần ghi chép là vì bối cảnh của văn hoá sĩ đương thời. Thời Tiên Tần là giai đoạn bách gia tranh minh, nhân tài rất nhiều. Rất nhiều kẻ sĩ thời đó quan niệm rất đơn giản, hoàn toàn không nhất thiết phải trung với nước chư hầu mình sinh sống. Việc lưu động kẻ sĩ giữa các nước nhiều không kể xiết, họ luôn mong ngóng sự tri ngộ của bậc minh chủ. Họ hy vọng có thể gặp được người tri âm, có thể hiểu được mộng vương công chư hầu của mình, từ đó mà phát huy sở học của mình. Đó chính là mơ ước suốt mấy ngàn năm của người đọc sách. Nhưng mà có thế đạt được mục tiêu ấy có mấy người? Hầu hết họ đều một đời uổng phí tài năng không gặp được tri âm mà hoàn toàn vô danh, cũng có người ẩn thân nơi chợ nghèo, người thì đợi già chốn sơn lâm. Từ đó có thể thấy, Cao sơn lưu thuỷ được lưu truyền rất rộng thời Tiên Tần chính là vì điển tích phía sau nó ngụ ư một cuộc gặp gỡ kỳ diệu của đời người, cũng là sự bộc lộ sự oán trách thế nhân bạc bẽo, ngu dốt không biết đến nhân tài. Sở dĩ hàng trăm nghìn năm tới nó vẫn sẽ khơi gợi được những tiếng nói chung của không ít người cũng chính là ở những tình cảm ẩn chứa trong đó.

Ghi chú:

Trung Quốc cổ đại Thập đại danh khúc

Cổ nhạc Trung Quốc lưu truyền mười nhạc khúc nổi tiếng được xưng tụng “ Trung Hoa thập đại danh khúc”. Mười nhạc khúc đó bao gồm:

1. Cao sơn lưu thuỷ
2. Quảng lăng tán
3. Bình sa lạc nhạn
4. Mai hoa tam lộng
5. Thập diện mai phục
6. Tịch dương tiêu cổ
7. Ngư tiều vấn đáp
8. Hồ gia thập bát phách
9. Hán cung thu nguyệt
10.Dương xuân bạch tuyết.

Đằng sau mỗi nhạc khúc là những giai thoại thú vị. Nghe nhạc khúc mà không biết nguyên nhân dẫn khởi nhạc khúc tất không thể đi đến tận cùng cái vi diệu của khúc ý. Mỗi nhạc khúc có những câu chuyện lịch sử và văn chương đằng sau chúng. Cần biết để có thêm hứng thú khi thưởng thức nhạc khúc.