Một thú chơi sang trọng, thanh tao, thi vị phát sinh trong xã hội loài người ở khắp nơi trên thế giới từ rất lâu đời là thú chơi đồ cổ.

Người Trung Quốc có bản tính hiếu cổ. Các triều vua thời Đường, Tống, Minh, Thanh đều thích sưu tầm cổ vật quý, như cổ khí văn vật từ thời Hạ, Thương, Chu... để làm quốc bảo vật. Còn ở phương Tây, các nhà cầm quyền và giới quý tộc phong kiến, ngay từ thế kỷ XV, đã say mê tìm kiếm các loại cổ vật của phương Đông.





Thú chơi đồ cổ ở Việt Nam nảy sinh từ khá sớm. Có lẽ nó có nguyên nhân chủ quan và khách quan sau đây:

1. Nhu cầu thưởng ngoạn, giải trí của vua chúa, của các nhà quyền quý, của các nghệ nhân, trí thức nước ta.

2. Sản phẩm thủ công cao cấp của ta rất đẹp, được làm ra từ rất xa xưa, nhiều loại không thua kém hàng Trung Quốc, Nhật Bản.

3. Nhiều sản phẩm thủ công tuyệt hảo của nước Trung Quốc láng giềng sớm du nhập vào Việt Nam.





Dưới các chế độ quân chủ chuyên chế, đồ cổ và các vật quý khác (vàng, ngọc, ngà...) đều giành riêng cho vua và quan lại cao cấp sử dụng. Ngay cả những của ngon vật lạ, sơn hào hải vị, đặc sản quý đều phải cung tiến vua và triều đình phong kiến theo quy định. Vì vậy, dân gian gọi nhiều loại đặc sản do mình làm ra là ''tiến'' như nhãn tiến (nhãn lồng), vải tiến (vải thiều), v.v... Luật lệ cũ của triều đình không cho phép thường dân xây dựng nhà cửa to lớn, không được sử dụng đồ vật sang trọng, quý báu như của vua, chúa và những người có phẩm hàm, chức tước. Nhân gian nếu có đồ cổ, vật quý đều phải nộp cho triều đình, hoặc phải cúng vào chùa chiền, đền miếu làm đồ thờ cúng.

Trước kia, đồ cổ không phải là vật phẩm để chơi cho tất cả mọi người như quan niệm ngày nay.

Mãi đến cuối thế kỷ XIX, khi đất nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, mọi trật tự xã hội và quan niệm truyền thống bị đảo lộn, thay đổi, uy quyền của vua chúa mất dần. Nhà nước phong kiến suy yếu, các thế lực địa chủ, thương nhân mạnh dần lên. Chính những người mới phất lên thành giàu sang này đã nghĩ tới việc chơi đồ cổ. Bởi vì bấy giờ mới có điều kiện cả về kinh tế cả về xã hội để họ thực hiện được mong ước của mình, cũng là ước mơ lâu đời của người dân. Do có tiền và muốn chơi sang, để chọn lại giới quyền quý xưa, cũng là để giải trí, những người chơi đồ cổ hồi bấy giờ cố công sưu tầm cổ vật quý Việt Nam và tìm mua đồ gốm sứ, hoặc các loại đồ gỗ gia dụng quý giá của Trung Quốc, sản xuất vào các thời Minh – Thanh. Họ bày biện, trang trí nhà cửa bằng những đồ cổ ấy, nhiều khi được lựa chọn kỹ càng và sắp xếp theo yêu cầu mỹ thuật rất cao nhằm tạo ra vẻ mỹ cảm đặc biệt hoặc nhấn mạnh sự giàu sang. Từ đó, thú chơi đồ cổ dần dần lan rộng trong nhân dân. Những kiến thức mới về khảo cổ và mỹ thuật được giới trí thức tân học tiếp thu rồi phổ biến trong dân chúng.





Từ cuối thế kỷ XIX đến những năng đầu thế kỷ XX, do kết quả của khảo cổ học, dân tộc học và nghiên cứu văn hóa, song song với hoạt động của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội) và Hội Đô thành hiếu cổ (Huế), các Viện Bảo tàng được thành lập ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã mở các triển Lãm cổ vật, giới thiệu những di sản văn hóa của dân tộc cho công chúng thưởng thức.



Tại kinh đô Huế, dưới triều Khải Định (1916 - 1925), Viện Bảo tàng Khải Định được mở ra. Bảo tàng này đã trưng bày các bảo vật của Hoàng gia, vốn trước đó vẫn được cất giữ bí mật. Cần nói thêm rằng: Khải Định là ông vua rất ham thích đồ cổ Dưới thời ông, các đại thần, quý tộc, hoàng thân quốc thích đều thi nhau chơi đồ cổ. Trong các nội phủ, các dinh thự vàng son, đồ cổ không chỉ để bày biện, trang trí, mà còn được dùng trong cúng tế, yến tiệc và cả trong sinh hoạt hàng ngày. Hơn nữa, ngay tại đất cố đô, nghề buôn đồ cổ cũng được phép hoạt động. Lúc ấy, các nhà buôn đồ cổ tiếng tăng lừng lẫy ở Huế là các ông Tham Hòa, Nghè Hưng, Cửu Sung.

Trong thời gian ấy, ở Bắc Kỳ, các nhà chính trị và giới thương gia cũng đua nhau chơi đồ cổ. Những viên quan khét tiếng như Khâm sứ Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Nguyễn Văn Định... trưng bày la liệt kỳ trân, bảo vật trong nhà, ngoài sân dinh thự nhằm thỏa mãn thú chơi quyền quý, cao sang một thời.

Ở Hà Nội, trong giới chơi đồ cổ là các thương gia những năm đầu thế kỷ, đến nay người Hà Nội còn nhắc tới các tên tuổi: ông Hương Ký (chủ hiệu ảnh Hương Ký), ông Nguyên Ninh (chủ doanh nghiệp bánh cốm Nguyên Ninh), ông Mỹ Thắng (phố Hàng Bạc) và hai nhân vật nữ không kém nổi tiếng là bà Bé Tý, cô Tư Hồng. Các ông Hương Ký, Nguyên Ninh, Mỹ Thắng đều rất sành về đồ cổ có những bộ sưu tập quý hiếm.





Đặc biệt, ở phố Hàng Trống lúc bấy giờ, có nhà buôn đồ cổ lừng tiếng Hàn Liên, cụ là người kỳ cựu trong nghề buôn bán cổ vật, mà tiếng tám đã vang khắp nơi trên Đông Dương và tới tận Pari, thủ đô nước Pháp.

Còn trên đất Nam Bộ, thú chơi ''đồ xưa'' cũng lan rộng trong nhân dân từ thành thị đến thôn quê. Ở Sài Gòn thời Pháp thuộc, nổi tiếng sành chơi cổ vật hơn cả có bà Đốc phủ Hà Minh Phải. Trên đất Vĩnh Long cũng có ông Phán Nuôi được người đương thời mệnh danh ''đệ nhất về đồ xưa''. Tại đường Catinat (nay là đường Đồng Khỏi, thành phố Hồ Chí Minh) có tiệm Pháp Vũ chuyên buôn bán đồ cổ. Tiệm này chuyên cung cấp các đồ quý lạ cho những người sành điệu. Ở Chợ Lớn bấy giờ cũng có nhà buôn Chánh Đào Ngọc chuyên cung cấp các loại bình thường cho người miệt vùng Lái Thiêu và các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Như vậy, thú chơi đồ cổ cũng như thú chơi non bộ và cá cảnh Việt Nam phát triển rộng rãi từ Bắc đến Nam, ăn sâu bắt rễ trong nhân dân, đem lại niềm say mê mỹ cảm rất lành mạnh. Đồ cổ không chỉ đẹp, mà còn quý hiếm, cho nên việc chơi đồ cổ thường đi liền với việc buôn bán đồ cổ. Có thể nói các nhà chơi đồ cổ và các nhà kinh doanh đồ cổ bao giờ cũng là những người có công sưu tầm và bảo quản các đồ vật. Tính sôi động của thị trường đồ cổ, phần đông là thị trường ngầm lắt léo và phức tạp sẽ được nói tới ở phần sau. Còn bây giờ ta hãy tìm hiểu thú chơi, kiểu chơi đồ cổ của người Việt Nam.