Các loại súng như phóng lựu hóa học, cối, đại liên, chống tăng... của Việt Nam và quân đội Mỹ cách đây hơn 40 năm đang được trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (TP HCM).






Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh trên đường Võ Văn Tần (TP HCM) đang trưng bày hàng chục loại súng, đạn mà quân đội Mỹ từng sử dụng cách đây hơn 40 năm.

Súng trường M-14






M-14 là vũ khí chính được bộ binh Mỹ sử dụng trong giai đoạn đầu chiến tranh Việt Nam. Loại súng trường cỡ nòng 7,62 mm này có độ chính xác cao và hỏa lực mạnh nhưng lại nặng và khó sử dụng. M-14 cũng khó kiểm soát trong chế độ bắn tự động hoàn toàn.

M-14 dài 1.181 mm, nòng súng dài 559 mm và nặng khoảng 5,2 kg khi rỗng. Vận tốc đạn ra khỏi nòng khoảng hơn 850 m/s, tốc độ bắn 725 viên mỗi phút và tầm bắn 460 m.

Nhằm giúp binh sĩ có vũ khí phù hợp hơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó Robert McNamara, ra lệnh thay thế M-14 bằng súng trường M-16 vào năm 1964.

Súng trường tấn công M-16






Từ trên xuống là các biến thể của M-16 gồm M16A1, M16A2, M4, M16A4.
Súng trường tấn công M-16, cụ thể hơn là M-16A1, cỡ nòng 5,56 mm, là một trong những vũ khí cầm tay phổ biến nhất trong chiến tranh Việt Nam. Ban đầu, một số binh sĩ thích M-14 phản đối đưa M-16 vào sử dụng trong cuộc chiến, gọi nó là "đồ chơi Mattel", lấy theo tên một công ty sản xuất đồ chơi.

Mẫu M-16 đầu tiên biên chế cho lính Mỹ vào tháng 3/1965 còn gặp một số vấn đề như thường bị tắc khi đang bắn. Điều này được cho là yếu tố làm gia tăng thương vong, khiến quốc hội Mỹ phải mở cuộc điều tra. Vấn đề trên nhanh chóng được khắc phục và M-16 trở thành loại vũ khí chính trong cuộc chiến.

M-16 có thể hoạt động với hai chế độ bắn tự động và bán tự động, tầm bắn hiệu quả 300 m, tốc độ bắn 700 - 900 viên mỗi phút. Theo báo cáo từ Bộ Quốc phòng Mỹ năm 1968, M-16 được chấp nhận rộng rãi và chỉ có 38 trên 2.100 cá nhân muốn thay thế M-16.

M-16 vẫn đang được sử dụng trong quân đội Mỹ.

Súng chống tăng M72 hạng nhẹ






Trong số đó phải kể đến súng chống tăng M72 hạng nhẹ. Loại vũ khí này được sử dụng phổ biến trong quân đội Mỹ với hệ thống bắn gồm có một hỏa tiễn nạp sẵn trong ống phóng kéo ra, đẩy vào được, đồng thời có chứa cả hệ thống khai hỏa. Đạn HEAT (đạn nổ mạnh - chống tăng) 66 mm dùng cho loại súng này có thể xuyên thủng lớp thép dày 260 mm của xe tăng. Với một đầu đạn trong mỗi ống phóng và chỉ sử dụng được một lần, M72 được thiết kế và chế tạo để thay thế cho Bazooka.

Súng đại liên M60

Súng đại liên M60 là loại súng máy đa năng, sử dụng cơ chế trích khí, đạn nạp vào bằng dây, làm mát bằng không khí với một chế độ bắn duy nhất là liên thanh. M60 có thể được khai hỏa từ máy bay, từ hỏa điểm hay kẹp nách để bắn.






Đại liên M60 được thiết kế cho bộ binh với tốc độ bắn 600 viên đạn/phút. Súng được đặt lên nhiều loại giá khác nhau để sử dụng trên thiết vận xa và trực thăng. M60 được Mỹ sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với vai trò là hỏa lực cấp tiểu đội bộ binh. Nó còn được gắn trên xe bọc thép M113 hay tàu tuần tiễu lẫn máy bay trực thăng.

Đại liên 30 M2






Đại liên 30 M2 (12,7 mm) có tốc độ bắn chừng 450-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 1.830 m và tầm bắn tối đa lên tới 6.800 m. Cho đến nay trên thế giới, M2 vẫn là một trong những khẩu súng máy hạng nặng tốt nhất, được bộ binh mang vác hoặc gắn trên xe chiến đấu.

Súng phóng lựu hóa học M79






Súng phóng lựu hóa học M79
ra đời từ những năm 1950 do hãng Springfield Armory (Mỹ) thiết kế nhằm giải quyết vấn đề chế áp bộ binh đối phương đặt ra sau chiến tranh thế giới thứ 2. Được đưa vào trang bị trong quân đội Mỹ từ năm 1961, súng phóng lựu cá nhân M79 nặng 2,7 kg, dài 731 mm, nòng xoắn dài 357 mm. M79 cũng sử dụng đạn cỡ 40x46 mm với nhiều chủng loại như: đạn nổ mảnh sát thương, đạn xuyên lõm, đạn hơi cay, đạn chiếu sáng, đạn khói chỉ thị mục tiêu, đạn rải truyền đơn… Tốc độ bắn đạt 6 viên/phút, thấp hơn so với súng cối nhưng đảm bảo khả năng bắn cầu vồng ở cự li gần, chế áp bộ binh rất hiệu quả, ở tầm 400 m trở xuống.

Súng Colt 45 1911






Colt 45 xuất hiện lần đầu vào năm 1911 và được sử dụng trong hai cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam cũng như những hoạt động quân sự khác Mỹ tham gia.

Loại súng ngắn này vẫn tiếp tục được sử dụng trong quân đội Mỹ nhưng chủ yếu là cấp cho sĩ quan hoặc những người tham gia lực lượng đặc biệt.

Colt 45 1911 dài 210 mm, nòng súng dài 127 mm, trọng lượng rỗng 1,14 kg, băng đạn gồm 7 viên và tầm bắn 25 m.

Súng CAR-15




Binh sĩ Không quân Mỹ sử dụng CAR-15 trong một cuộc tập trận bắn đạn thật
Colt CAR-15 Commando (XM177) là loại súng carbine tấn công có khe gắn ống ngắm được phát triển trong giai đoạn Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu về một vũ khí cận chiến dễ mang theo cho lực lượng đặc nhiệm Mỹ tác chiến trong rừng.

CAR-15 xuất hiện lần đầu vào năm 1966, dựa trên ArmaLite AR-15, mẫu súng là nền tảng để chế tạo M-16.

CAR-15 dài khoảng 80 cm, nòng súng dài hơn 25 cm và nặng hơn 2 kg. CAR-15 sử dụng loại đạn kích cỡ 5,56 x 45 mm NATO, băng đạn STANAG loại chứa 20 và 30 viên đạn.

Súng M16 gắn M.79:






Súng M16 gắn M.79: Súng M16 xuất hiện tại miền Nam vào giữa và cuối thập niên 1960, sử dụng đạn nhỏ và sức giật nhẹ nên lò xo đẩy thanh nạp đạn nhanh hơn và tốc độ bắn liên thanh rất cao. Nhờ thế nhiều viên đạn thoát ra khỏi nòng cùng một lúc có thể đến chính xác mục tiêu. Các thế hệ súng M16 sau này có cải tiến làm gia tăng sức xuyên phá bằng cách tăng tốc độ xoáy cùng trọng lượng của viên đạn.

Súng cối 60 mm






Súng cối 60 mm
là một loại trong bốn loại hoả pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, lựu pháo, pháo phản lực và súng cối). Bộ binh thường mang súng cối đi theo đội hình để làm hỏa lực đi kèm. Không giống với các loại khác, súng này thường nạp đạn từ phía trước nòng, cho phép thao tác bắn rất đơn giản và nhanh.