Omega là một trong những hãng đồng hồ xa xỉ nổi tiếng nhất trên thế giới. Xuất hiện cùng với James Bonds, Tổng thống John F. Kennedy, NASA cho đến thế vận hội Olympic. Những cái tên như Speedmaster, Seamaster và Constellation đã xứng đáng có được vị trí top đầu trong lòng các tín đồ đồng hồ khắp mọi nơi.

Vào cuối thế kỷ thứ 19, "Omega" - vốn là tên của một trong những cơ cấu chuyển động - đã được chọn làm tên của công ty và được phát triển cho đến tận ngày nay.






Nó thật sự nổi bật vào Thế chiến thứ II, khi các lính bộ binh và không quân đều phụ thuộc vào thương hiệu này. Chữ Omega cũng được hiểu là sự tinh tế và khéo léo của từng chi tiết.

Năm 1848, Louis Brandt thành lập nên một công ty đồng hồ mang tên mình này ở La Chaux-de-Fonds, chính là tiền thân của Omega sau này.

Năm 1877, hai con trai ông là Louis-Paul và César tham gia cùng, và công ty đổi tên thành Louis Brandt & Fils.
Năm 1894, công ty này cho ra đời thế hệ Movement mới, và đạt được sự thành công trên toàn thế giới, nhờ khả năng đo thời gian chính xác và dễ dàng sữa chữa.
Movement này được gọi là tên là Omega Cal.. Nhờ thành công của nó, công ty một lần nữa đổi tên thành Louis Brandt & Frére – Omega Watch Co. vào năm 1903, và cái tên Omega ra đời từ đó.






Tháng 2/1990, tại nơi tận cùng khác của thế giới, Arved Fuchs và Reinhold Messner hoàn thành “chuyến thám hiểm địa cực cuối cùng trên Trái đất”. Cả hai đã vượt qua Nam Cực bằng đường bộ và phải mất 92 ngày để hoàn thành chuyến thám hiểm này. Nhiệt dộ ổn định ở mức -40o F và tốc độ gó là 90mph, hai người đã vượt quá núi Theil tới Cực Nam, sau đó tiếp tục đến McMurdo Soune ở biển Ross. Đồng hồ của Messner trong chuyến hành trình này cũng một chiếc Omega Speedmaster.

Tại cuộc thử nghiệm tại đài thiên văn Geneva năm 1931, Omega thắng Giải Nhất trong cả 6 hạng mục. Cùng năm đó, công ty cũng sử dụng Slogan quảng cáo mới “Omega- Exact time for life”. Thông điệp này thực sự không phải chỉ là lời nói ngoa mà chính là một cam kết chắc chắn dựa trên kết quả của hàng thập kỷ thử nghiệm tại các đài thiên văn

Vào mùa thu năm 1962, một nhóm nhà phi hành gia trong đó có Walter Schirra and Leroy “Gordo” Cooper bước vào một cửa hàng đồng hồ ở Houston để tìm kiếm những chiếc động hồ dùng cho những chuyến bay trong dự án Sao Thủy (Mercury Program). Họ rời khỏi cửa hàng với những chiếc Omega Speedmaster, và trang lịch sử của Omega trong lĩnh vực chinh phục không gian bắt đầu từ đây.






Năm 1969, ngày 21, Neil Amstrong bước ra khỏi tàu du hành Eagle và trở thành người đầu tiên đặt chân lên một hành tinh khác. Tuy nhiên, ông ấy đã không đeo chiếc Speedmaster ref. 105.012 của mình mà để lại nó trong tàu Eagle, bởi vì chiếc đồng hồ trên tàu đã không còn hoạt động. Vài phút sau đó, Buzz Aldrin bước đi trên Mặt Trăng, đeo chiếc đồng hồ của anh ấy, và chiếc Omega Speedmaster “Moonwatch” trở thành chiếc đồng hồ đầu tiên được đeo trên mặt trăng.

Bài kiểm tra vô cùng khắc nghiệt của Omega, Rolex và Longines-Wittnauer, được thiết kế tới mức có thể làm hỏng những chiếc đồng hồ không đạt chất lượng.
Vào tháng 1/1965, NASA chọn ra chiếc đồng hồ thắng cuộc, công nhận dòng Speedmaster ref. ST105.003 với danh hiệu “Flight Qualified for all Manned Space Mission“.






Năm 1948, Omega cho ra đời dòng Seamaster, được sáng tạo nên dựa trên loại đồng hồ Omega đã sản xuất cho quân đội Anh vào Thế chiến II, chào mừng kỷ niệm 1000 năm thành lập.

Nhận thấy những thợ lặn sống và làm việc ở những độ sâu rất "khủng", Omega bắt tay vào nghiên cứu dòng “Ploprof” (PLOngeur PROFessionel, hay “Thợ lặn chuyên nghiệp”) Seamaster 600 và cho ra mắt công chúng năm 1970 sau 4 năm nghiên cứu, thử nghiệm.
Tháng 9/1970, 4 thợ lặn COMEX đã đeo thử Ploprof trong 8 ngày, làm việc dưới nước 4h mỗi ngày, ở độ sâu 250m. Những thợ lặn của Cousteau cũng sử dụng những chiếc đồng hồ này ngoài khơi bãi biển Marseille trong một chuỗi thử nghiệm để kiểm tra những ảnh hưởng đối với hoat động lặn tại độ sâu đến 500m.

Năm 1957, Omega ra mắt loại Professional trong dòng Seamaster cùng với lúc với Omega Seamaster 300. Nhóm của Jacques Cousteau đã đưa Seamaster 300 vào thử nghiệm “Pre Continent II” Tại Bển Đỏ vào mùa hè năm 1963.
Nhiều đơn vị quân đội, bao gồm cả British Special Boat Service cũng chon Seamaster 300 làm đồng hồ của mình.






Omega sản xuất chiếc đồng hồ Chronograph đầu tiên vào năm 1898, và chỉ trong vòng 10 năm, những đồng hồ này được sử dụng để đo thời gian tại hơn 16 kỳ thi thể thao quốc tế. Sau khi thắng giải nhất tại tất cả 6 hạng mục vào lần thử nghiệm Geneva Observatory năm 1931, danh tiếng về sự chính xác của đồng hồ Omega đã khiến Ủy ban Olympic Thế giới chỉ định Omega thành hãng đồng hồ bấm giờ chính thức của Thế vận hội Olympic Los Angeles 1932. Omega đã cung cấp 30 chiếc đồng hồ Chronograph độ chính xác cao có khả năng đo 1/10 giây, tất cả đều có chứng nhận chronometer bởi Đài thiên văn tại Neuchâtel cũng như Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia tại Mỹ.
Năm 1995 đánh dấu 2 mốc đầu tiên cho sự nổi tiếng của hãng: GoldenEye được công chiếu với nhân vật James Bond “mới” do Pierce Brosman thủ vai, và Omega Seamaster Planet Oceans xuất hiện lần đầu tiên trên tay nhân vật này.
Kể từ đó, điệp viên 007 đã đeo đồng hồ Omega trong Tomorrow Never Dies, The World is Not Enough, Die Another Day, ****** Royale, Quantum of Solace, và Skyfall.

Những cú kích điện này phải xảy ra trong khoảng thời gian chính xác để có thể đẩy chiếc tàu không gian đi đúng hướng, không quá nhanh hay quá chậm. Và Speedmaster đã đo lường thời gian hoàn hảo, giúp những phi hành gia trở về an toàn. Để ghi nhận điều này, Omega đã được trao giải Snoopy Award bởi những phi hành gia tàu Apollo 13 cho “sự bền bỉ, chuyên nghiệp và đóng góp tuyệt vời trong Dự án Tiếp Cận Mặt Trăng đầu tiên của Hoa Kỳ”.

Nổi tiếng nhất là sự tranh chấp “nảy lửa” giữa Ralph Metcalfe và Thomas Edward “Eddie“ Tolan trên đường đua 100m nam. Nhìn từ phía khán giả, có vẻ như Metcalfe về đích trước. Chiếc đồng hồ bấm giờ cầm tay ghi lại 3 lần 10.3s cho Metcalfe và hai lần 10.3s và 1 lần 10.4s cho Tolan. Một chiếc camera “Chronocinema” có thể quay được lúc kết thúc cuộc đua và có thể đo thời gian đến 1/100 giây.






Lãnh đạo Xô VIết Mikhail Gorbachev thường chụp ảnh với chiếc đồng hồ Constellation Manhattan bằng vàng. Như đã nói ở trên, trong bộ phim My Fellow Americans năm 1995, Jack Lemmon đóng vai một cựu tổng thống Mỹ. Có một lúc Lemmon đã nói về chiếc đồng hồ cả mình là “Đó là một chiếc Constellation. Gorbachev đã tặng nó cho tôi”.

Buddy Holly đã đeo chiếc Omega siêu mỏng từ vàng trắng khi máy bay của ông bị rơi vào tháng 2 năm 1959. Ringo Starr thì đeo một chiếc Omega Constellation khi biểu diễn với nhóm nhạc The Beatles.

Thợ đồng hồ nối tiếng người Anh George Daniels phát triển nên bộ phận Co-axial escapement (Bộ thoát đồng trục) nổi tiếng hiện nay, Omega đã nhận ngay thử thách là áp dụng phát kiến này trên diện rộng trong quá trình sản xuất đồng hồ. Những nỗ lực này lên đến cực điểm với sự ra đời của động cơ Omega Co-Axial Caliber 2500 vào năm 1999. Omega đã chào hàng cho bộ phận này như là một bộ phận Escapement mới nhất và hiệu quả nhất từng được phát minh ra trong vong 250 năm qua.

Một trong những người sở hữu đồng hồ Omega nổi tiếng nhất là tổng thống John F. Kennedy, người đã đeo một chiếc Omega Ultra Thin (Ref. OT 3980) trong buổi nhận chức Tổng thống thứ 35 của nước Mỹ vào tháng 1/1961. Chiếc đồng hồ đã được một người bạn tặng cho Kennedy vào trước cuộc bầu cử. Trên nắp lưng đồng hồ có khắc dòng đề tặng “"Ngài tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, từ Grant”. Ngày nay, chiếc đồng hồ này được trưng bày tại bảo tàng Omega.

Vào năm 2007, Omeg cho ra mắt động cơ Co-Axial Caliber 8500, nhấn mạnh bộ thoát ma sát thấp, sự hiểu quả về mặt cơ học, và đo lường thời gian chính xác. Sự tự tin của Omega về Co-Axial giống như mọi chiếc đồng hồ được chứng nhận chronometer của COSC mà họ đã từng đạt được.






Năm 2013, Omega thông báo về phát kiến một movement đầu tiền trên thế giới có khả năng chống lại ảnh hưởng của trọng lực lớn hơn 15000 Gause, vượt xa khả năng kháng trọng lực của mọi movement trước đó. Cách làm của Omega là thiết kế một máy đồng hồ có thêm bộ khung di động (Tourbillon) chứa tất cả các phần của bộ thoát, với bộ thăng bằng đặt ở giữa, không cần sử dụng nắp sắt và mang lại khả năng kháng trọng lực tuyệt vời. Một số đồng hồ được thiết kế có cửa sổ để nhìn thấy rõ tourbillion hoạt động như thế nào, và cũng là một phần tạo nên tính thẩm mỹ của chiếc đồng hồ.